THẦY CHÂU CỦA
TÔI
NGUYỄN NGỌC KÝ
Nhà
giáo Ưu tú, Nhà Văn Việt Nam
đầu tiên viết
bằng chân
Cựu học sinh của trường Cấp
2 Hải Phương niên khóa 1961-1962 và 1962-1963
Lời tựa:
Tôi viết về Thầy Châu cũng là viết
về trường cấp 2 Hải Phương thân yêu. Nếu không có thầy Châu, không có cấp 2 Hải
Phương những năm tháng khó quên ấy hẳn sẽ không có Nguyễn Ngọc Ký hôm nay. Tôi
mãi mãi tri ân mái trường Hải Phương, tri ân những tấm lòng cao cả như thầy
Châu, thầy Diệu, thầy Vịnh, đặc biệt thầy Hiệu trưởng Trần Hữu Độ những năm
tháng ấy...
Năm học 1962- 1963, dạy toán và làm chủ nhiệm lớp 7b
trường cấp 2 Hải Phương của tôi là thầy Trần Ngọc Châu. Quê thầy ở huyện Lý
Nhân cách Hải Hậu quê tôi chừng 40 cây số. Dáng thầy mập chắc, tóc hớt cao.
Bước đi lúc nào cũng rộng và nhanh khác thường. Cứ trống vào tiết học vang lên
đến tiếng thứ ba là lập tức thầy đã xuất
hiện ở cửa lớp. Tất cả các phòng học của trường tôi ngày đó, mỗi cửa ra vào đều
ngăn cách với hành lang bằng chiếc bậu cửa khá cao. Thầy có thói quen bao giờ
cũng xăm xăm đạp lên chiếc bậu cửa đó để bước vào lớp chứ không lặng lẽ bước qua
như tất cả các thầy cô giáo khác. Với thầy dường như cái gì cũng khẩn trương và
dứt khoát. Bài thầy giảng bao giờ cũng ngắn gọn, khúc triết. Thầy nói rất ít.
Song nói tiếng nào là tiếng ấy cứ như đinh đóng cột khiến chúng tôi không thể
không nghe, không nhớ.
Một lần cậu Liên được thầy gọi đứng dậy nhắc lại một công thức thầy vừa
giảng. Cậu ta ấp úng nói sai, lập tức bị thầy quở trách:
-Có thế cũng sai. Mất trật tự trong giờ. Một điểm !.
Cậu ta liền cố ý thanh minh rằng không hề mất trật tự. Thầy phạt thế là
oan cho cậu. Liền ngay lúc đó cậu nhận được ở thầy một đáp án còn gay gắt hơn :
-Cãi à?. Cãi à?. Hai điểm một !
Sau này chúng tôi mới hiểu sự nghiêm khắc ấy của thầy chẳng qua là thầy
muốn dạy cho Liên và cũng là cho cả lớp chúng tôi bài học sâu sắc về sự tập
trung chú ý cao độ trong giờ để hiểu bài tại lớp. Sự thực thì hai điểm một ấy
của Liên đã được thầy bỏ qua khi tổng kết học kỳ.
Hàng tuần cứ đến thứ bảy, vào giờ
sinh hoạt chủ nhiệm thầy lại kể hoặc đọc cho chúng tôi nghe truyện về các danh
nhân toán học mà thầy sưu tầm trong các lo¹i sách báo. Có người bị mù từ nhỏ
vẫn say sưa tự học đã trở thành nhà toán học nổi tiếng. Có người say sưa giải
toán quên cả cái chết đang đến từng giây. Bằng những câu chuyện cảm động về
những con người đó không biết từ lúc nào thầy đã thắp lên trong tôi ngọn lửa
khát vọng học tốt môn toán. Tôi không nói nhưng dường như thầy đã nhận ra điều
đó. Bằng chứng là thầy rất ưu tiên gọi tôi thường xuyên trình bày cách giải
những bài toán khó cho cả lớp cùng nghe. Tôi không viết được bảng (Chắc bạn đã
biết tôi phải dùng chân thay cho tay nên việc này thật khó đối với tôi). Biết
vậy thầy sẵn sàng giúp tôi hoặc cử Đinh Thành Tựu - một bạn viết chữ đẹp cũng
mê toán như tôi lên viết giúp.
Có lần gặp một bài toán hình quá
hóc búa, nghĩ hoài mấy ngày không ra. Một hôm về học đến nửa đường tôi đột ngột
nghĩ ra cách giải. Sướng quá, tôi quay luôn lại nhà thầy để khoe. Thầy niềm nở
đón và chăm chú nghe tôi say sưa trình bày cách giải. Thầy thưởng cho món qùa
đặc biệt: Một mẩu giấy ghi sẵn mấy đề toán khó mới sưu tầm. Tôi háo hức đón
nhận và hăm hở định chào tạm biệt thầy thì bất ngờ một trận mưa lớn ập tới. Đợi
cơn mưa vừa ngớt thì trời đã nhá nhem tối .
- Thôi Ký để thầy đưa về. Trời tối, đường trơn em đi một mình tay chân
thế nhỡ có điều gì thì gay đấy!.
Tôi chưa kịp gì thì thầy đã cúi xuống săn xở xắn quần cho tôi rồi vào
bàn lấy đèn pin. Hai thầy trò đi được một đoạn, mưa tạnh hẳn nhưng những cơn
gió bấc càng gào to.
- Ký lạnh lắm phải không? Thôi khoác tạm chiếc áo bông của thầy vậy.
Thầy vừa nói vừa trút áo mặc luôn
sang cho tôi. Tôi nghẹn ngào xúc động. Hai mí mắt cứ chập chập liên hồi mà vẫn
không sao giữ nổi những giọt nước mằn mặn lăn dài xuống miệng.
Chuẩn bị cho kỳ thi học sinh giỏi môn toán cấp huyện năm đó tôi được
thầy Châu chọn vào danh sách dự khuyết.
Tôi vừa vui vừa buồn, vừa mừng vừa tủi. Tại sao thầy thương mình đến vậy
mà lại không nương tay xếp cho mình được ở danh sách chính thức. Sau này tôi
mới hiểu : khoa học là khoa học, tình thương là tình thương. Với thầy hai khái
niệm đó không bao giờ lẫn lộn. Mọi sự nuông chiều, chiếu cố đối với khoa học
đều là lưỡi dao tự sát với chính nó. Và quả thật chính với quyết định đó thầy
Châu đã cứu tôi thoát khỏi chủ quan ảo tưởng, làm bừng cháy mãnh liệt trong tôi
ngọn lửa tự trọng, tự ái quyết chí không ỷ lại mà tự vượt mình bằng những nỗ
lực không biết mệt mỏi nhằm chuẩn bị tốt nhất cho kỳ thi sắp tới. Ngày đêm tôi
miệt mài đắm say thao thức và hạnh phúc đến rơi nước mắt khi tìm ra cách giải
mới một bài toán khó. Sự tiến bộ về môn toán của tôi cứ thế vượt lên từng ngày. Và một ngày kia cả
lớp tôi reo lên sung sướng khi nhà trường thông báo: kỳ thi học sinh giỏi toán
vừa qua tôi đạt giải nhất toàn huyện, rồi
giải ba toàn tỉnh.
Thầy Châu mừng lắm. Có lẽ thầy cũng không ngờ tôi lại đạt được giải như
vậy. Thầy quyết định tôi phải đến ở hẳn nhà thầy để thầy trực tiếp bồi dưỡng
trước khi tham dự kỳ thi học sinh giỏi toán toàn miền Bắc. Hiểu nỗi băn khoăn
của tôi, thầy nói luôn:
- Ký đừng lo. Cơm nước hàng ngày thầy trò ta ăn chung ở trường. Còn sinh
hoạt Ký cần gì anh Đẩu sẽ giúp (Đẩu là
em trai thầy, học trên tôi một lớp, trọ cùng nhà với thầy)
Vậy là lần đầu tiên trong đời tôi
phải xa nhà đi trọ học. Đêm đêm, tôi rất muốn ngủ với anh Đẩu để được tự nhiên,
song thầy dứt khoát không cho. Có lẽ thầy muốn tôi ngủ chung với thầy để có cơ
hội thầy trò thêm gần gũi, chia sẻ, hỏi han tôi những tâm sự về hoàn cảnh gia
đình, về những băn khoăn vướng mắc trong sinh họat hàng ngày và đặc biệt về
những gì có liên quan tới việc học toán. Song có lẽ cái quan trọng hơn, thầy
muốn ngủ chung để có điều kiện chăm lo cho giấc ngủ của tôi được chu toàn. Thời
điểm ấy đang là đầu mùa xuân. Trời vẫn còn lạnh lắm. Nhất là về đêm. Bao giờ
thầy cũng để tôi nằm phía trong nơi chiếc giường kê sát tường nhà. Mỗi lần tôi
giở mình, sợ tấm chăn bị trật, thầy lại khẽ khàng quàng tay kéo đắp lại cho
tôi.
Một đêm hai thầy trò lên giường nằm
đã khá lâu, tôi vẫn thao thức chưa sao ngủ được. Bỗng nghĩ bật ra cách giải một
bài toán khó đang làm dở lúc tối. Sướng quá, tôi tung chăn định ngồi nhổm dậy
thì nhớ ra có thầy bên cạnh. Tôi đành lặng lẽ nằm im trở lại như cũ. Thầy bỗng
quàng tay ôm chặt lấy tôi :
- Ký vừa mơ phải không?
- Dạ, không ạ. Em chưa ngủ. Em
vừa nghĩ ra cách giải bài toán lúc chiều rồi thầy a!.
Thầy im lặng. Lát sau thầy mở chăn, vén màn đi ra khỏi giường. Tôi không
biết thầy định làm gì. Lục xục ở bàn làm việc một lúc rồi thầy lặng lẽ mở cửa
đi ra ngoài. Lúc sau tôi ngạc nhiên thấy thầy trở vào với cây đèn thắp sáng
trên tay :
- Ồ, thầy đi xin lửa à?
- Ừ, diêm ở nhà vừa hết. Thôi Ký dậy viết luôn cách giải bài toán vừa
nghĩ ra để ngủ cho ngon.
Tôi không ngờ thầy lại hiểu đúng cái bụng của tôi lúc này đến vậy. Tôi
sướng đến rơn người, tung chăn nhảy phốc xuống đất quên cả cái lạnh của đêm.
Vừa viết tôi vừa hăm hở nói cho thầy nghe về cách chứng minh bài toán hình
trong ánh đèn dầu chập chờn trên tấm chiếu thầy vừa trải ra giữa nền nhà.
Kỳ thi học sinh giỏi môn toán cấp II toàn miền Bắc năm đó thầy trực tiếp
dẫn tôi lên thành Nam tham dự, trực tiếp giúp tôi mọi thứ rầy rà trong sinh
hoạt. Trước ngày thi, để tư tưởng thoải mái, tối đó thầy dẫn tôi đi chơi xem
một vài phố trong thành Nam. Thầy đưa tôi ghé vào khu chợ Rồng, hỏi tôi muốn
mua gì cứ nói. Một cậu bé quê nghèo lần đầu tiên lên phố tôi cứ tròn xoe mắt mà
nhìn mà ngắm mà thích thú biết bao thứ. Song vì e dè tôi chỉ biết lắc đầu từ
chối. Cuối cùng thầy vẫn mua tặng tôi mấy thứ mà thầy nói là để chuẩn bị cho kỳ
thi ngày mai được tốt. Một thếp giấy trắng dùng lót dưới bài thi để viết cho
dễ. Một chiếc bút Kim Tinh để viết cho trơn. Một chiếc com pa Trung Quốc lo¹i
tốt để vẽ hình cho thuận lợi. Một tờ giấy thấm để làm khô chữ nhanh sau khi
viết xong mỗi trang. Thầy còn chu đáo mua một chiếc bảng tay con bằng nhựa rất
đẹp cho tôi làm bìa lót chân để giữ cho bài thi khỏi bị dơ, bị nhàu. Thích nhất
thầy còn mua tặng tôi một qđa bóng đá mi ni mà bấy lâu nay tôi hằng ao ước.
Buổi sáng hôm sau, khi dẫn tôi đến trường thi (Đặt ngay trong Ty giáo
dục Nam Định, gần phố Bến Thóc ngày nay), thầy
ghé vào tai tôi nói nhỏ:
- Ký có đi tiểu thêm không? Vào nhà vệ sinh kia thầy giúp để thi cho
thoải mái nhé. Ngồi suốt ba giờ chắc là
căng thẳng đấy.
Không ngờ sự quan tâm của thầy lại cụ thể và tâm lý đến vậy. Tôi đành
lặng lẽ thực hiện theo lời thầy. Rời nhà vệ sinh bước đến phòng thi, nhận ra
những giọt nước mắt cảm động của tôi đang ứa trào thầy liền rút mùi xoa lau vội
cho tôi. Thầy cười, vỗ vỗ vào vai tôi
nói nhỏ:
- Vào thi thầy nhắc Ký điều này
nhé: Đây là đề thi quốc gia nên khó đấy. Song em cứ bình tĩnh tự tin mà làm. Em
đừng lo lắng gì việc được giải hay không được giải. Miễn sao em cứ cố gắng làm
hết khả năng của mình. Nhưng Ký nhớ viết chữ cho rõ ràng thêm nhé. Không là
thiệt thòi đấy. Mọi bài thi đều cắt phách cả. Nào ai biết bài của em viết bằng chân đâu.
Trước khi tạm biệt như nhớ ra vẫn còn điều gì đó băn khoăn về tôi, thầy
liền theo tôi bước vào phòng thi. (Lúc đó giám thị chưa tới). Thầy đảo mắt nhìn
quanh rồi lặng lẽ bước ra. Lát sau thầy quay vào lần lượt mang theo hai rồi ba
chiếc ghế dựa. Thầy chọn chỗ gần một cửa sổ nơi nhiều ánh sáng kê châu ba chiếc
ghế dựa ấy vào nhau và bảo tôi ngồi xuống đó viết thử. Bấy giờ tôi mới hiểu
thầy đang lo cho tôi có chỗ ngồi làm bài thi sao cho phù hợp, thuận tiện nhất
với việc viết bằng chân. (Ở lớp học hàng ngày tôi có một chiếc bàn riêng. Song
khi lên tỉnh thi thế này làm sao mang nó theo được).
Kết quả kỳ thi ấy tôi đạt giải 5
toàn miền Bắc. Lần thứ hai tôi vinh dự được Bác Hồ tặng huy hiệu. Để nhớ công
ơn của thầy tôi đã trân trọng gửi lại kính tặng thầy chiếc huy hiệu ấy trước
ngày bước vào học cấp 3. Song thầy đã một mực từ chối. Tôi nằn nì mãi cuối cùng
để tôi vui thầy đành nhận. Nhưng rồi
thầy đã tặng lại phòng truyền thống nhà trường cấp 2 Hải Phương nơi thầy và tôi
đã gắn bó những năm tháng không bao giờ quên khi tôi và thầy cùng chia tay mái
trường thân yêu ấy vào mùa hè 1963. Thầy chuyển về dạy cấp 2 Hải Thanh quê
hương tôi niên kha đầu tiên vừa khai giảng. Tôi được chuyển th¼ng vào học cấp 3
Hải Hậu..
NNK