TÓM TẮT CUỘC ĐỜI HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
THỜI
THƠ ẤU VÀ THANH NIÊN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(1890-1911)
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 nǎm 1890 tại quê ngoại
làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình
nhà nho.
Thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh nǎm
1862 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng ông sớm có ý
chí tự lập, thông minh, ham học.
Nǎm 1901 Nguyễn Sinh Sắc thi Hội và đậu Phó bảng. Tuy đỗ cao
nhưng ông vẫn sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét thói xu nịnh, cam phận của
các quan lại trong triều đình Huế. Ông chỉ làm quan trong một thời gian ngắn và
sau đó sống bằng nghề dạy học, bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Ông
đã đi nhiều nơi, liên lạc với những người yêu nước, tuyên truyền đoàn kết, kêu
gọi nhân dân sống có tình nghĩa thủy chung. Tư tưởng yêu nước tiến bộ, nhân
cách cao thượng của ông đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến những người con. Ông qua
đời tại thị xã Cao Lãnh (Đồng Tháp) vào nǎm 1929, thọ 67 tuổi.
Thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị Loan sinh nǎm 1868
trong một gia đình nho học. Bà là một phụ nữ thông minh, cần cù chịu khó,
thương yêu chồng con và giàu lòng nhân ái. Bằng nghề làm ruộng và dệt vải bà đã
hết lòng chǎm lo cho chồng và các con. Cuộc đời của bà tuy ngắn ngủi nhưng đã
để lại hình ảnh về một phụ nữ Việt Nam sống có tình nghĩa và có ảnh hưởng rất
lớn tới tư cách của các con mình. Bà Hoàng Thị Loan qua đời tại Huế nǎm 1901,
lúc 33 tuổi.
Chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thanh, sinh nǎm 1884.
Chị đã tham gia nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị thực dân Pháp và triều
đình phong kiến bắt giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê hương nǎm 1954, thọ
70 tuổi.
Anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh nǎm
1888. Từ tuổi thanh niên, Nguyễn Sinh Khiêm đã đi nhiều nơi truyền thụ kiến
thức, mở mang vǎn hoá. Do tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và
phong kiến nên Nguyễn Sinh Khiêm đã từng bị tù đày nhiều nǎm. Nguyễn Sinh Khiêm
qua đời nǎm 1950, thọ 62 tuổi.
CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH TIẾP NHẬN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VÀ KHẲNG ĐỊNH CON ĐƯỜNG CÁCH
MẠNG VIỆT NAM
(1911-1920)

Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam do Nguyễn A’i Quốc gửi đến Hội
nghị Véc-xây (Versailles)
Ngày 5 tháng 6 nǎm 1911, với bí danh Vǎn Ba, Nguyễn Tất Thành(1)
nhận làm phụ bếp cho tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của
hãng Nǎm sao, rời Sài Gòn đi Mác-xây (Marseille) Pháp, bắt đầu cuộc hành trình
tìm đường cứu nước. Từ nǎm 1911 đến nǎm 1920, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều
nước ở châu Âu, châu Phi , châu Mỹ, nghiên cứu và học hỏi để quyết định con
đường Cứu nước.
Cuối nǎm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. ở đây anh
được biết ở nước Nga V.I Lênin đã lãnh đạo cách mạng thành công, sáng lập Nhà
nước công nông đầu tiên trên thếgiới, bảo vệ quyền lợi của đại đa số nhân dân
lao động. Tin vui ấy đã cổ vũ lòng hǎng hái của Nguyễn Tất Thành.
Nǎm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Nǎm 1919
các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị Véc-xây (Versailles). Nhân dịp này
thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn A’i Quốc (tên mới của
Nguyễn Tất Thành) đã gửi tới Hội nghị bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân
Việt Nam.
Tháng 7 nǎm
1920 qua báo Nhân đạo (L’Humanité) Pháp, Nguyễn A’i Quốc được đọc Luận cương
của V.I Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sau này nhớ lại niềm sung
sướng khi đọc Luận cương của V. I Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Luận
cương của V. I Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng
biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói
to lên nhu đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau
khổ.! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.”

Nguyễn A’i Quốc phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp họp
tại thành phố Tours nǎm 1920
Nguyễn A’i
Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự Đại hội lần thứ XVIII
của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này Anh đã cùng với
những nhà hoạt động chính trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp như: Macxen Casanh
(Marcel Cachin), Pôn Vayǎng Cutưyariê (Paul Vaillant Couturier)… bảo vệ chủ
nghĩa Mác, chống lại những người cơ hội. Trên diễn đàn của Đại hội, Nguyễn A’i
Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kêu gọi giai cấp công
nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân
các thuộc địa khác. Người đề nghị: “Đảng xã hội cần phải hoạt động một cách
thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức … Đảng phải tuyên truyền chủ
nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa. Chúng tôi thấyrằng việc Đảng xã
hội gia nhập Quốc tế thứ ba có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể là từ nay Đảng
sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa“. Cũng tại Đại hội này
Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế cộng sản, trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Sau Đại hội Tua, người cộng sản Việt Nam đầu tiên Nguyễn A’i
Quốc bắt tay ngay vào hoạt động nhằm đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân các
thuộc địa đấu tranh chống áp bức, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con người.
CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẤU TRANH BẢO VỆ VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO
ĐƯỜNG LỐI CỦA V.I LÊNIN VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC VÀ THUỘC ĐỊA
(1920-1924)

Bìa sách “Bản án chế độ thực dân Pháp”
Nǎm 1921,
Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp thành lập
Hội liên hiệp thuộc địa nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc Điều lệ của Hội nêu rõ: “Mục đích của Hội là tập hợp và hướng dẫn
cho mọi người dân các xử thuộc địa hiện sống trên đất Pháp để soi sáng cho
những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt ở nước Pháp nhằm mục đích đoàn
kết họ; thảo luận và nghiên cứu tất cả những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc
địa”. Tuyên ngôn của Hội kêu gọi nhân dân thuộc địa đoàn kết đấu tranh tự giải
phóng và nhấn mạnh “Vận dụng công thức của Các Mác chúng tôi xin nói với anh
em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của
bản thân anh em. Hội liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em
trong công cuộc ấy“.
Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động cách mạng ở các
thuộc địa, Hội liên hiệp thuộc địa đã xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ).
Nguyễn A’i Quốc là linh hồn của tờ báo, vừa là chủ nhiệm, kiêm chủ bút, thủ
quỹ, báo xuất bản bằng tiếng Pháp nhưng ở trang đầu còn có tên báo bằng chữ ả
rập và chữ Hán. Số 1 của tờ báo ra ngày 1 tháng 4 nǎm 1922, trong đó có lời kêu
gọi nêu rõ: Báo Le Paria ra đời do sự thông cảm chung của các đồng chí ở Bắc
Phi, Trung Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở Ma-đa-gat-xca, ở Đông Dương, Ǎng ti và
Guyannơ… Báo kêu gọi họ đoàn kết lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và
tinh thần của chính họ, hô hào họ tổ chức lại nhằm mục đích giải phóng những người
bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và hữu ái…
Báo Le Paria là vũ khí chiến đấu. Sứ mệnh của nó đã rõ ràng: giải phóng con
người.
Tác phẩm
của Nguyễn A’i Quốc “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản vào cuối
nǎm 1925. Nhiều bài trong tác phẩm đã được đǎng báo Le Paria và một số báo, tạp
chí ở Pháp và Liên Xô. Bằng những chứng cớ và số liệu cụ thể, những người thật
việc thật Nguyễn A’i Quốc đã thức tỉnh nhân dân các thuộc địa, đồng thời chỉ ra
con đường đấu tranh của cách mạng thuộc địa, Nguyễn A’i Quốc chỉ rõ: “Chủ
nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc
và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật
ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi
thì cái vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn
tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra“.

Nhà số 13 và 13/1 (nay là 248-250) đường Vǎn Minh, (Quảng Châu),
nơi Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam
Trong bài
viết nhan đề “Đông Dương” đǎng trong Tạp chí Cộng sản (La Revue Communiste) số
15 tháng 5 nǎm 1921, Nguyễn A’i Quốc nhấn mạnh : “Ngày mà hàng trǎm triệu
nhân dân châu A’ bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện
của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng
lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là chủ nghĩa đế quốc họ có thể giúp nhũng người anh em mình ở phương Tây
trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn“.
Tháng 6 nǎm 1923, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và Đảng
Cộng sản Pháp, Nguyễn A’i Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô. Được thực tiễn cách
mạng Nga lúc đó cổ vũ, Nguyễn A’i Quốc kiên trì đấu tranh bảo vệ và phát triển
sáng tạo tư tưởng của V.I Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự chú ý
của Quốc tế Cộng sản tới phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa.
Nguyễn A’i Quốc đặc biệt quan tâm tới tình cảnh của người nông
dân trong các nước thuộc địa. Họ chiếm đại đa số trong xã hội và cách mạng
thuộc địa không thể thắng lợi nếu không có sự tham gia của đông đảo nông dân.
Tại Hội nghị lần thứ I Quốc tế Nông dân (tháng 10 nǎm 1923) Nguyễn A’i Quốc
được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và được cử vào đoàn Chủ tịch của Hội
đồng. Người còn được mời làm chuyên gia của Ban thư ký giúp Hội đồng chuẩn bị
nội dung cho các cuộc họp và là chuyên gia về những công việc liên quan đến các
thuộc địa.
Người viết
nhiều bài báo về tình cảnh nông dân Bắc Phi, nông dân Trung Quốc, nông dân Việt
Nam. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Quốc tế Nông dân, Nguyễn A’i Quốc đã tố
cáo những thủ đoạn thực dân để biến nông dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng.
Vì vậy người nông dân không còn đường sống mà phải đấu tranh, họ là lực lượng
cách mạng vô cùng to lớn. Kết thúc bài phát biểu Nguyễn A’i Quốc kêu gọi: “Thưa
các đồng chí, tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí
chỉ trở thành một Quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả
nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc
lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí“.
Trong các bài
phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (nǎm 1924) Nguyễn A’i Quốc đã đề cập
vấn đề về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, kêu gọi
sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới với cách mạng thuộc địa. Tại phiên
họp XXV ngày 3 tháng 7 nǎm 1924 Nguyễn A’i Quốc chỉ rõ: “Trong tất cả các
thuộc địa Pháp, nạn nghèo đói đều tǎng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi
dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa họ đã vài lần
nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở
trong tình trạng tiêu cực thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức , thiếu
người lãnh đạo. Quốc tế cộng sản phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp
cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đườngđi tới cách mạng và giải phóng“.
Cuối nǎm 1924 Nguyễn A’i Quốc yêu cầu được trở về châu A’ để
thực hiện hoài bão giải phóng nhân dân các dân tộc thuộc địa, trong đó có nhân
dân Việt Nam
CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH SÁNG LẬP CHÍNH ĐẢNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
(1924-1930)

Bìa sách “Đường Cách mệnh” – Tác phẩm lý luận cách mạng Việt Nam
Ngày 11
tháng 11 nǎm 1924 Nguyễn A’i Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Trong báo cáo
gửi Chủ tịch Đoàn quốc tế cộng sản ngày 18 tháng 12 nǎm 1924, Nguyễn A’i quốc
đã thông báo về việc đã tiếp xúc với nhóm những người Việt Nam yêu nước ở Quảng
Châu để huấn luyện về phương pháp hoạt động tổ chức và sau ba tháng học xong sẽ
trở về Đông Dương, và có một đoàn khác sang. Người nhấn mạnh: “Trong lúc
này, đây là biện pháp duy nhất“.
Nguyễn A’i
Quốc đã cùng một số đồng chí trực tiếp giảng bài cho các lớp huấn luyện. Những
bài giảng của Người được tập hợp in thành sách mang tên “Đường Cách mệnh”
xuất bản nǎm 1927. Một trong những vấn đề đầu tiên Nguyễn A’i Quốc đặc biệt
quan tâm là đào tạo những người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; hiểu lý
luận Mác – Lênin; biết đoàn kết và tổ chức nhân dân cùng phấn đấu vì sự nghiệp
chung. Phân tích những bài học kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế
giới, Nguyễn A’i Quốc nêu rõ cách mạng Việt Nam phải theo gương cách mạng Nga
đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc, đánh đổ phong kiến tay sai đem lại
ruộng đất cho nông dân.
Người nói:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật…
Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công phải lấy dân
chúng làm gốc, phải có đảng vững bền“.
Tháng 6 nǎm 1925, trên cơ sở số cán bộ được huấn luyện, Nguyễn
A’i Quốc thành lập Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng”, tổ chức tiền thân của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 21 tháng 6 nǎm 1925, báo “Thanh niên” ra đời. Đây
là tờ báo cách mạng làm nhiệm vụ tuyên truyền giới thiệu về chủ nghĩa Lênin và
cách mạng Tháng Mười Nga; giải thích đường lối chiến lược và sách lược của cách
mạng Việt Nam. Báo là người tuyên truyền tập thể, người cổ động và tổ chức tập
thể, góp phần quan trọng vào việc xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 5 nǎm 1927, Nguyễn A’i Quốc, rời Quảng Châu, đi Mátxcơva,
sau đó đi Béc lin, tham dự Hội nghị Ban chấp hành mở rộng của Liên đoàn chống
chiến tranh đế quốc tại Brúc xen (Bỉ), đi Y’ và trở về Xiêm (Thái Lan). Cuối
nǎm 1929, Người trở lại Trung Quốc, triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức
cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào cầu nǎm 1930
CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH – NGƯỜI TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THẮNG LỢI
VÀ SÁNG LẬP NƯỚC VIỆT NAM DÂN
CHỦ CỘNG HOÀ
(1930-1945)
Sau cao trào 1930-1931, sự khủng bố của thực dân Pháp càng gắt
gao hơn, nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt bớ, tù đày, giết hại. Ngày 6 tháng 6
nǎm 1931, Nguyễn A’i Quốc bị chính quyền Anh bắt giam trái phép tại Hồng Kông
(Trung Quốc).

Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945
Cuối nǎm 1933, Nguyễn A’i Quốc rời Hồng Kông. Đầu nǎm 1934 Người
trở lại Liên Xô. Tại đây Người vào học trường Quốc tế Lênin, nghiên cứu ở Viện
nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời tiếp tục theo dõi, chỉ
đạo phong trào cách mạng trong nước trong hnh hình chủ nghĩa phát xít đã công khai
đàn áp mọi phong trào dân chủ và hoà bình. Trong nhiều tài liệu Nguyễn A’i Quốc
nêu lên sách lược của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kỳ 1936-1939, nhấn
mạnh vấn đề tập hợp mọi tầng lớp nhân dân và thành lập một mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi đấu tranh đòi tự do, dân chủ và hoà bình.
Trước những chuyển biến của tình hình thế giới, tháng 10 nǎm
1938, Nguyễn A’i Quốc rời Liên Xô về Trung Quốc. Tháng 9 nǎm 1940 phát xít Nhật
chiếm đóng Đông Dương. Cuối nǎm 1940
Người về
sát biên giới Việt – Trung , bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về nước.
Người đã mở lớp huấn luyện chính trị để chuẩn bị cán bộ đáp ứng yêu cầu tình
hình nhiệm vụ mới. Người nêu rõ trong tài liệu huấn luyện: “Sự nghiệp giải
phóng dân tộc là sự nghiệp chung của các dân tộc, các giai cấp bị bóc lột ở
Đông Dương. Toàn thể nhân dân Đông Dương không phân biệt dân tộc nào, giai cấp
nào đều phải đồng tâm hiệp hội đoàn kết cùng nhau mới làm nổi“.
Ngày 28 tháng 1 nǎm 1941, Nguyễn A’i Quốc về nước, Người chọn
Cao Bằng làm cǎn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong trào cách mạng. Vùng
Khuổi Nậm Pác Bó là nơi họp Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương (tháng 5 nǎm
1941) do Nguyễn A’i Quốc chủ trì, nơi ra báo Việt Nam độc lập, mở các lớp huấn
luyện xây dựng lực lượng cách mạng. Pác Bó có hang Cốc Bó, nơi Nguyễn A’i Quốc
chọn làm chỗ ở và làm việc của mình.
Ngày 6
tháng 6 nǎm 1941, Nguyễn A’i Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước “Trong
lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết
lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi
lửa nóng… Việc cứu quốc là việc chung, ai là ngườiViệt Nam đều phải kề vai gánh
vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người
có sức góp sức, người có tài nǎng góp tài nǎng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm
lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dẫu phải hy sinh tính
mệnh cũng không nề“.
Tháng 8 nǎm 1942, lấy tên là Hồ Chí Minh và với tư cách là đại
diện Mặt trậnViệt Minh và phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm
lược, Người sang Trung Quốc. Ngày 29-8-1942 Người bị chính quyền địa phương của
Tưởng Giới Thạch bắt giam, sau đó bị giải qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc
tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian ở tù, Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm thơ nổi
tiếng “Nhật ký trong tù”. Đến nay “Nhật ký trong tù” đã được dịch ra hơn 10 thứ
tiếng.
Tháng 9 nǎm 1943, Hồ Chí Minh được trả lại tự do. Tháng 3 nǎm
1944, Người tham dự Hội nghị các lực lượng cách mạng Việt Nam ở Liễu Châu (Trung
Quốc). Tại Hội nghị này Người đã đọc báo cáo về hoạt động của Mặt trận Việt
Minh và Đảng Cộng sản, nêu rõ tiền đồ của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt
Nam, mối quan hệ mật thiết và lâu đời giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
Tháng 9 nǎm 1944, Hồ Chí Minh trở lại Cao Bằng. Người gửi thư cho đồng bào toàn
quốc kêu gọi chuẩn bị triệu tập Quốc dân đại hội. Tháng 12 nǎm 1944, Người
quyết định thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của
quân đội nhân dânViệt Nam.
Ngày 9 tháng 3 nǎm 1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp
độc chiếm Đông Dương. Cuộc chiến tranh thế giới thứ I cũng bước vào giai đoạn
cuối với những thắng lợi của Liên Xô các nước Đồng minh. Ngày 4 tháng 5 nǎm
1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang) sau sự kiện Liên Xô
tuyên chiến với Nhật Bản (ngày 9 tháng 8 nǎm 1945) và ồ ạt tiến công đạo quân
Quan Đông của chúng, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima (6-8), và
Nagadaki (9-8), ngày 10 tháng 8 phe Đồng minh đã gửi công hàm yêu cầu Nhật Bản
đầu hàng không điều kiện. Chớp thời cơ ấy, ngày 12 tháng 8 nǎm 1945, Hồ Chí
Minh cùng Ban thường vụ Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang
trong cả nước. Theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp tại
Tân Trào ngày 13 tháng 8 nǎm 1945. Hội nghị thông qua quyết định Tổng khởi
nghĩa, thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ngày 16 tháng 8 nǎm 1945 Quốc dân
đại hội Tân Trào đã hoàn toàn nhất trí với chủ trương phát động khởi nghĩa của
Đảng. Đại hội đã bầu ra ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm
thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Trong bức
thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Hỡi đồng bào yêu
quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến; toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới
đang ganh nhau tiến bước giành độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên!
Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên“. Ngày 19-8,
khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, ngày 23-8 thắng lợi ở Huế, ngày 25 tháng 8 thắng
lợi ở Sài Gòn.
Ngày 2
tháng 9 nǎm 1945, tại Quảng trường Ba Đình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người tuyên bố: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy“.
CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH, NGƯỜI TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO CUỘC ĐẤU TRANH
GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1946-1954)
Sau khi
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn
dân đấu tranh xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền non trẻ. Ngay trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời 3-9-1945, Người đề ra những nhiệm vụ
cấp bách lúc đó là động viên toàn dân chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm.

Bác thǎm một gia đình ở Việt Bắc
Để giữ vững
thành quả cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những biện pháp cần thiết để xây
dựng hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương tới địa phương, một
chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Trong thư gửi ủy ban nhân dân các
kỳ, tỉnh, huyện và làng tháng 10 nǎm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nếu
không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ thì
nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với dân phải đoàn kết thành một
khối…. Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến
các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ
không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp Nhật.
Việc gì
lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta“.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh quan tâm hàng đầu tới việc xây dựng chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Ngày 3 tháng 12 nǎm 1945, Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam đã
khai mạc tại Thủ đô Hà Nội. Nhân dịp này Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi tới
đồng bào các dân tộc thiểu số, Người khẳng định: “Nhờ sự đoàn kết giữa các
dân tộc, nhờ sự hy sinh của tất cả các đại biểu mà chúng ta tranh được quyền tự
do độc lập và xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Từ đây về sau các
dân tộc đã đoàn kết phải đoàn kết thêm, đã phấn đấu càng phải phấn đấu thêm
nữa, để giữ gìn quyền độc lập cho vững vàng để xây dựng một nước Việt Nam mới“.
Một phần quan trọng trong trưng bày ở phần này là giới thiệu các tài liệu hiện
vật về hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm bảo vệ nền độc lập, giữ vững hoà
bình ở Việt Nam. Trong bức thư ngày 23 tháng 11 nǎm 1946 gửi người Việt Nam,
người Pháp và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ và nhân dân
Việt Nam kiên quyết cộng tác thật thà với người Pháp. Trong khi phải giữ chủ
quyền của Tổ quốc, cần hy sinh thì cũng phải kiên quyết hy sinh…. Người Việt và
người Pháp có thể và cần phải bắt tay nhau trong một sự nghiệp cộng tác bình
đẳng, thật thà để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc“.
Trước dã tâm của thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần
nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc
kháng chiến trên phạm vi cả nước. Sáng ngày 20 tháng 12nǎm 1946, trên làn sóng
phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi cứu nước của Người đã truyền
đi khắp nước:
“Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ… Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm
thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước“.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định chiến
cục Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ
Một trong
những nhân tố quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi là sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể về xây dựng Đảng nhằm nâng
cao vai trò tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân. Trong tác phẩm: “Sửa đổi
lối làm việc” viết nǎm 1947, Người nêu lên những kinh nghiệm, những bài học
thực tiễn có tính lý luận, bồi dưỡng tác phong lãnh đạo của người đảng viên
cộng sản. Người đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao tư cách và đạo đức cách
mạng của đảng viên và khẳng định: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân“.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khởi xướng phong trào Thi đua yêu nước. Người nhắc nhở toàn dân: “Mỗi
một người lấy việc xung phong trong phong trào thi đua ái quốc làm nhiệm vụ
thiêng liêng của mình“. Người yêu cầu các cán bộ Đảng, Chính quyền và các
đoàn thể phải thấm nhuần và thực hiện tư tưởng: “Nước lấy dân làm gốc“,
và chỉ rõ: “Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân,
vậy tất cả anh chị em, các bộ đội cơ quan chính phủ và các đoàn thể trong khi
tiếp xúc hoặc chung sống với dân, ai cũng phải nhớ và thực hành.
“Gốc
có vững, cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân“.
Tháng 2 nǎm
1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng khai mạc tại chiến khu
Việt Bắc. Trong Báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ nhiệm vụ chính trị của Đảng là : Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn
và tổ chức Đảng Lao động Việt Nam, Người nói: “Chúng ta phải có một Đảng
công khai, tổ chức hợp với tình hình thế giới và tình hình trong nước để lãnh
đạo toàn dân đấu tranh cho đến thắng lợi Đảng Lao động Việt Nam phải là một
đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Nhiệm vụ cấp
bách nhất của Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng lợi, các nhiệm
vụ khác đều phải phụ thuộc vào đó“.
Ngày 6
tháng 12 nǎm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông
qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên
Phủ. Người chỉ thị cho Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Chiến dịch
này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị,
không những đối với trong nước mà còn đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân toàn
dân, toàn Đảng, phải tập trung hoàn thành cho kỳ được“.
CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC
VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ XÂM LƯỢC,
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
(1954-1969)

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trong vườn hoa Phủ Chủ tịch nǎm 1961
Trở lại Thủ
đô Hà Nội trong giai đoạn cách mạng mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nhiệm vụ
của nhân dân Việt Nam là thi hành đúng Hiệp nghị Giơ ne vơ nǎm 1954 về Đông
Dương; củng cố hoà bình, đấu tranh để thực hiện thống nhất đất nước bằng Tổng
tuyển cử tự do; củng cố miền Bắc về mọi mặt; mở rộng và củng cố Mặt trận dân
tộc thống nhất trong cả nước. Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, Người nhắc
nhở đảng viên phải phấn đấu, chú trọng nâng cao đạo đức cách mạng, coi đó là
nền tảng của mỗi đảng viên để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình. Nǎm 1958
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng“, trong đó Người
nêu lên tư cách của một người đảng viên là: Phải trung thành tuyệt đối với
Đảng, quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; ra sức làm việc cho
Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên
trên lợi ích của cá nhân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì Đảng vì dân mà
đấu tranh; gương mẫu trong mọi việc, ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn
luôn dùng phê bình và tự phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của
mình và đồng chí mình tiến bộ.
Về phần mình, lời nói đi đôi với việc làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn là gương sáng về thực hành đạo đức cách mạng. Những kỷ vật của Người để
lại được giới thiệu trong bảo tàng (như bộ quần áo gụ, đôi dép cao su v.v…)
không chỉ nói về cuộc sống giản dị, đức khiêm tốn của một con người mà còn nói
lên nhân cách của một vị lãnh tụ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: “Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, miền Nam chưa được giải
phóng là một ngày tôi ǎn không ngon, ngủ không yên“.
Người luôn
dành tình cảm sâu đậm với miền Nam, quan tâm theo dõi và cổ vũ từng bước tiến
của cách mạng miền Nam. Trong Thư gửi đồng bào cả nước ngày 6 tháng 7 nǎm 1956,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân
dân ta. Đại đoàn hết là một lực lượng tất thắng“. Đồng bào miền Nam luôn
hướng về Bác Hồ, về Thủ đô Hà Nội, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Những vật lưu niệm từ miền Nam gửi tới Người được trưng bày đã nói lên
tình cảm tha thiết của nhân dân miền Nam đối với Người.
Tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam, tháng 9 nǎm 1960 Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà“. Đại hội đã bầu
lại Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam.
Dưới ánh
sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III miền Bắc bước vào thực
hiện kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh động viên toàn Đảng toàn dân vừa xây dựng, phát triển kinh tế,
giữ gìn và phát triển nền vǎn hoá dân tộc, vừa chǎm lo đến đời sống hàng ngày
của nhân dân. Người cổ vũ nhân dân miền Nam ruột thịt đang chiến dấu anh dũng
để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn
mạnh đến việc xây dựng con người mới, Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa“. Người đặc biệt quan
tâm đến sự nghiệp giáo dục và chỉ rõ: “Trong công tác giáo dục phải luôn
luôn kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực hành, giữa giáo dục với lao động,
vǎn hoá với đạo đức cách mạng; phải đẩy mạnh phong trào thi đua hai tốt: Dạy
thật tốt và học thật tốt “.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao nhiệm vụ miền Bắc phải là nền tảng, là
niềm tin đối với đồng bào miền Nam.
Nǎm 1962,
khi tiếp Đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra thǎm miền Bắc, Chủ tịch Hổ Chí Minh
nói: “Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn luôn ở trong trái tim tôi“. Người
mong muốn miền Nam sớm được giải phóng để vào thǎm đồng bào, cán bộ và chiến sĩ
thân yêu. Nǎm 1963 khi Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề nghị tặng
Huân chương Sao vàng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đề nghị: “Chờ đến ngày
miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, Quốc hội cho phép đồng bào
miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý đó. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung
sướng, vui mừng“.
Tháng 8 nǎm
1964 đế quốc Mỹ gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ“, và từ tháng 2 nǎm 1965 đã
mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc và ồ ạt đưa quân
viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó Chủ tịch Hồ Chí Minh
kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam: “Lúc này chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ
thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước“. Tháng 7 nǎm 1966 Mỹ đã
dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
động viên nhân dân Việt Nam vượt qua hy sinh gian khổ và kêu gọi: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng
và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ
xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!“.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất coi trọng tình đoàn kết giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với nhân
dânViệt Nam và luôn gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Trong những nǎm kháng chiến cứu nước gian khổ, Người nói với nhân dân Việt
Nam: “Nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của
mình mà còn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hoà bình thế giới“.
Tháng 11 nǎm 1964, Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam đã được tổ
chức tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 64 đoàn đại biểu của 52 nước và tổ
chức quốc tế là sự cổ vũ to lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân
Việt Nam.
Về quan hệ
với nước Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn phân biệt sự khác nhau giữa những
người Mỹ xâm lược và nhân dân Mỹ; Người thông cảm sâu sắc với nỗi đau của những
gia đình, những người phụ nữ Mỹ có người thân tham gia cuộc chiến tranh xâm
lược ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều thư gửi nhân dân Mỹ, coi họ
là những người bạn thân thiết. Trong bức thư gửi nhân dân Mỹ tháng 1 nǎm 1962,
Người viết: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù oán gì nhau. Nhân
dân Việt Nam kính trọng các bạn là nước đầu tiên phất cờ chống chủ nghĩa thực
dân và chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu nghị với các bạn“.
Từ nǎm 1965,
khi tròn 75 tuổi, chuẩn bị cho cuộc “ra đi” của mình, Bác Hồ bắt đầu
viết Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Trong những nǎm còn lại, cứ đến
tháng 5, Bác Hồ lại sửa chữa và viết thêm vào vǎn kiện “tuyệt đối bí mật” này.
Trong Di chúc Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân… Đảng cần có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế, vǎn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sốngcủa
nhân dân…“.
Vào hồi 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 nǎm 1969, trái tim của Chủ
tịch Hồ Chí Minh ngừng đập, để lại nỗi tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân
Việt Nam và bạn bè quốc tế. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về những ngày tang lễ Chủ
tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội:
“ Suốt
mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…. “
(1) Tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh từ nǎm 1901
phuly.edu.vn