Nguồn: https://nhandan.vn/special/tuyenngondoclap_ynghia/index.html
Tuyên ngôn độc lập - Thời khắc lịch sử và ý nghĩa trường tồn
https://nhandan.vn/special/tuyenngondoclap_ynghia/index.html
Tuyên ngôn Độc lập:
Thời khắc lịch sử và ý
nghĩa trường tồn
Ngày
2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn
Độc lập” lịch sử, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam). Bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc và sự thống nhất
biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu
tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn
thảo, đến nay, vẫn vẹn nguyên giá trị.
Một tuần
gấp rút chuẩn bị cho ngày lập nước và viết Tuyên ngôn Độc lập
Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội đã tạo nên chuyển biến
nhảy vọt của Tổng khởi nghĩa, đồng thời tạo điều kiện để Trung ương và Chủ tịch
Hồ Chí Minh về tiếp tục chỉ đạo Tổng khởi nghĩa, xúc tiến chuẩn bị ngay cho
việc ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiến hành các hoạt động đối ngoại.
Ngày 21/8/1945, nhiều ủy viên Trung ương Đảng đã về Hà Nội. Ngày 25/8/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) về tới Hà Nội.
Sau khi nghe báo cáo tình hình khởi nghĩa ở Hà Nội, chiều 26/8/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh triệu tập và chủ tọa phiên họp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng,
tổ chức tại số nhà 48 phố Hàng Ngang, để bàn những nhiệm vụ cấp bách của nhà
nước cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất trí với chủ trương của Ban Thường vụ mở rộng thành
phần Ủy ban giải phóng dân tộc và sớm công bố danh sách của Ủy ban cho toàn dân
biết, chuẩn bị bản Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức cuộc mít-tinh lớn ở Hà Nội để
Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt nhân dân. Ngày ra mắt của Ủy ban cũng là ngày
Việt Nam tuyên bố thành lập chính thể dân chủ cộng hòa.
Ngày 27/8/1945, Ủy ban giải phóng dân tộc họp tại Hà Nội. Tại cuộc họp này,
theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do
Quốc dân Đại hội (Tân Trào) bầu ra được cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâm
thời, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng yêu nước và những
nhân sĩ tiến bộ. Một số ủy viên Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chính phủ để
nhường chỗ cho các thành phần khác, có cả những người đã từng tham gia trong
chính quyền cũ.
Hành
động tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành phần khác của một
số ủy viên Việt Minh được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Đó là một cử chỉ vô
tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết
toàn dân lên trên lợi ích cá nhân”.
Cũng trong ngày 27/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị
bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày hôm sau,
danh sách Chính phủ gồm 15 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được
công bố trên các báo ở Hà Nội.
Từ ngày 28/8/1945, theo sự phân công của Ban Thường vụ Trung
ương Đảng, tại chiếc bàn ăn trên gác hai nhà số 48 phố Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ
Chí Minh tập trung trí lực và tình cảm soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Nhằm
huy động trí tuệ tập thể, ngày 30/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời một số
đồng chí đến trao đổi, góp ý kiến vào văn kiện lịch sử quan trọng này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trào dâng niềm xúc động, vì trong quá trình
hoạt động cách mạng “đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ mới viết được một bản
Tuyên ngôn như vậy”. (Trích cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch, tác giả Trần Dân Tiên, trang 122)
Sau khi suy ngẫm, trăn trở, ngày 31/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh quyết định bổ sung một số điểm vào bản Tuyên ngôn, hoàn chỉnh bản khai
sinh của nước Việt Nam vừa giành được độc lập.
Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh dự thảo được
Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí thông qua trước khi công bố trước toàn
thể nhân dân Việt Nam và thế giới vào ngày 2/9/1945 tại Hà Nội.
Cùng với dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ đạo chuẩn
bị ngày quốc lễ 2/9/1945.
Bác Hồ
đọc Tuyên ngôn Độc lập
Ngày 2/9/1945, Hà Nội được vinh dự thay mặt các địa phương
trong cả nước, tổ chức ngày lễ độc lập để Chính phủ lâm thời ra mắt đồng bào;
đồng thời nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập thể chế
dân chủ cộng hòa.
Từ sáng sớm, cả Hà Nội bừng lên trong màu cờ đỏ sao vàng và đèn, hoa rực rỡ.
Những biểu ngữ lớn bằng chữ Việt, Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc chăng khắp các
đường phố: "Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Độc lập hay là chết",
"Ủng hộ Chính phủ lâm thời", "Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”...
Từ giữa trưa, nhân dân thành phố và các vùng lân cận đã cuồn cuộn đổ về quảng
trường Ba Đình, nơi dựng lễ đài Độc lập; tràn ngập các phố chung quanh.
Đúng 14 giờ, các thành viên của Chính phủ lâm thời bước lên lễ dài". Bài
Tiến quân ca vàng lên hùng tráng, lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên. Một
rừng cánh tay to lớn chào, bàn tay nắm lại.
Trong không khí trang nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập lịch sử, tuyên bố với toàn thể nhân dân, với thế giới nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự do ra đời.
Tuyên ngôn Độc lập mở đầu bằng một chân lý vĩnh cửu và phổ
biến "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", "Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sưởng và
quyền tự do", "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được".
Tiếp đó, Tuyên ngôn Độc lập tố cáo và lên án những tội ác của thực dân Pháp.
Chúng đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức
đồng bào ta”, thực hiện một chính sách cực kỳ phản động trên tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật xâm lược
Đông Dương, thực dân Pháp đã quỳ gối đầu hàng, không “bảo hộ” cho ta mà “bán”
nước ta cho Nhật. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó,
dân ta càng cực khổ nghèo nàn. Sau ngày 9/3/1945, thực dân Pháp thua chạy, dã
man và hèn hạ hơn nữa, “chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên
Bái và Cao Bằng”.
Tuyên ngôn Độc lập nêu cao tinh thần khoan hồng và nhân đạo của nhân dân ta,
giương cao ngọn cờ chính nghĩa và chính sách đúng đắn của Mặt trận Việt Minh
như cứu người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ...
sau ngày 9/3/1945.
Sau khi phân tích tình hình nước ta từ mùa thu năm 1940 đến khi nhân dân ta nổi
dậy giành chính quyền, bản Tuyên ngôn Độc lập nhấn mạnh: “Sự thực là dân ta đã
lấy lại nước Việt Nam tự tay Nhật, chứ không phải tự tay Pháp. Pháp chạy, Nhật
hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm
nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy
mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa".
Bản Tuyên ngôn Độc lập trịnh trọng tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời; thủ tiêu hoàn toàn chính quyền thực dân, phong kiến, khẳng định quyền tự
do, độc lập của dân tộc Việt Nam trước toàn thể nhân dân Việt Nam với toàn thế
giới. “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân
tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”.
Bằng giọng
nói ấm áp, truyền cảm,
Người đã đọc
bản Tuyên ngôn lịch sử
của dân tộc Việt
Nam. Lễ đài Độc
lập trên Quảng trường
Ba Đình Hà Nội do kiến
trúc sư Ngô Huy Quỳnh thiết
kế năm 1945. (Ảnh: TTXVN)
Tuyên ngôn Độc lập
khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy”.
Sau lễ tuyên thệ của Chính phủ lâm thời trước Tổ quốc và
nhân dân, đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo về tình hình trong nước và chính sách
của Chính phủ; đồng chí Trần Huy Liệu tường trình về sứ mệnh của đoàn đại biểu
Chính phủ vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại; đồng chí Nguyễn Lương Bằng kêu
gọi toàn dân thông nhất, đoàn kết, ủng hộ Chính phủ.
Đến 15 giờ 30 phút, toàn thể nhân dân tuyên thệ kiên quyết một lòng ủng hộ
Chính phủ dân chủ cộng hòa, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng Chính phủ giữ
quyền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có chết cũng
cam lòng nếu thực dân Pháp đến xâm lược lần nữa thì kiên quyết không đi lính
cho Pháp, không làm cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường
cho Pháp.
Sau khi quốc dân tuyên
thệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói thêm với đồng bào, độc lập, tự do là của báu, quý
giả vô ngần, nay ta đã khổ sở, đau đớn trong bao nhiều năm mới giành được, cần
phải cố gắng giữ gìn, bảo vệ.
Cuộc mít-tinh kết thúc. Cuộc biểu tình vĩ đại của hàng chục vạn quần chúng bắt
đầu. Các đoàn thể lần lượt diễu quanh lễ đài rồi chia làm ba đường diễu hành
qua các phố.
Ngày độc lập, mùng 2/9/1945 là ngày hội lớn của dân tộc ta, ngày Quốc khánh của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày Hà Nội trở thành Thủ đô của cả nước; một
ngày có “ý nghĩa cực kỳ trọng đại trong đời sống chính trị, tinh thần của dân
tộc”. (Trích Võ Nguyên Giáp: Những năm tháng không thể nào quên,
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970, trang 29).
aySeek00:00Current time02:23Toggle MuteVolumeToggle Fullscreen
Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập
tại Quảng trường
Ba Đình, ngày 2/9/1945.
(Clip: Trích phim tài liệu "Việt Nam thời
đại Hồ Chí Minh - Biên niên sử truyền
hình)
4 điểm đặc
biệt và 2 cống hiến nổi bật của Tuyên ngôn Độc lập
Thời gian chỉ có đúng một tuần để giải quyết một loạt công
việc trọng đại và cấp bách: ổn định tình hình, xúc tiến thành lập Chính phủ lâm
thời trên cơ sở cải tổ Ủy ban Dân tộc giải phóng mới được thành lập trong Đại
hội Quốc dân ở Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) ngày 16/8/1945; xúc tiến chuẩn
bị các công việc cho ngày lễ tuyên bố độc lập và đặc biệt là viết bản Tuyên
ngôn Độc lập để đọc trong ngày 2/9/1945. Lãnh tụ Hồ Chí Minh vừa chỉ đạo chung
các công việc bộn bề, vừa trực tiếp dự thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Qua nghiên cứu, PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện
trưởng Viện Lịch sử Đảng rút ra bốn điểm đặc biệt liên quan việc Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết Tuyên ngôn Độc lập:
Một là, Bản Tuyên ngôn được hoàn thành trong một thời gian rất ngắn, từ
ngày 26 đến 29/8.
Hai là, bản Tuyên ngôn sau khi dự thảo xong, đã được Người đưa ra tham
khảo ý kiến của Ban Thường vụ Trung ương ngày 30/8 và cả ý kiến của một sĩ quan
Mỹ là Thiếu tá Pa-ti thuộc Cơ quan Tình báo Mỹ (OSS đã hoạt động bên cạnh Việt
Minh chống phát-xít, ủng hộ Đồng minh) trong cùng ngày.
Ba là, bản Tuyên ngôn mở đầu bằng các đoạn trích trong Tuyên ngôn Độc
lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của
nước Pháp nói về các quyền cơ bản của con người.
Điều đặc biệt là ở chỗ,
Người đã có sự chuẩn bị, suy nghĩ từ lâu về những nội dung sẽ thể hiện trong
Tuyên ngôn Độc lập. Ý tứ sâu xa trong Tuyên ngôn Người viết là chỉ đích danh
Mỹ, lúc đó là nước đứng đầu phe tư bản đế quốc, còn Pháp là nước đã và đang tìm
cách áp đặt trở lại ách thống trị thực dân lên đất nước Việt Nam, hãy nhìn lại
những gì mà tổ tiên, cha ông của họ đã tuyên bố và mong muốn thực hiện.
Bốn là, bản Tuyên ngôn do Người trực tiếp viết với lời văn gọn rõ, đanh
thép, lập luận chặt chẽ, dễ hiểu, đi vào lòng người, thể hiện quyết tâm sắt đá
bảo vệ nền độc lập, tự do mới giành được của cả dân tộc Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn độc lập
của Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. (Nguồn ảnh:
Bảo tàng Hồ Chí Minh, chi nhánh TP Hồ Chí Minh).
Đọc Tuyên ngôn Độc lập, các nhà sử học, nhà nghiên cứu trong
nước và quốc tế thống nhất đánh giá có hai điểm sáng tạo nổi bật, mang giá trị
toàn nhân loại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ nhất là, Người đã tiếp thu và phát triển tinh thần bản Tuyên
ngôn Độc lập của nước Mỹ được viết ra từ 169 năm trước, khi đề cập đến quyền
con người.
Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ
viết: tất cả mọi người đàn ông đều sinh ra bình đẳng... trong khi đó, lãnh tụ
Hồ Chí Minh viết: tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Đây không
chỉ đơn thuần là sự thay đổi câu chữ, mà là sự tiến bộ vượt bậc trong nhận thức
về quyền con người, quyền bình đẳng nam-nữ, một sự nhận thức vượt qua hạn chế
của thời đại trước đó, cho nên có giá trị nhân văn rất cao cả.
Nhà văn, nhà nghiên cứu người Mỹ, người bạn thân thiết của Việt Nam, là Lady
Borton, là người đã phát hiện ra “chi tiết vĩ đại” nêu trên và đánh giá rất cao
cống hiến về mặt tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ hai, cùng với việc trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, Người
trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp: "Người ta sinh ra
tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”. Trên cơ sở đó, Người viết: "Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là:
Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là, nếu như trong các bản Tuyên ngôn của Mỹ, của Pháp
chỉ đơn thuần đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa,
không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm
thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã phát triển sáng tạo, đưa ra một
luận đề không thể bác bỏ, phủ nhận về quyền của các dân tộc.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng
trường Ba Đình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập,
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. (Ảnh: TTXVN)
Cống
hiến nổi tiếng của Hồ Chí Minh là ở chỗ đã phát triển quyền con người thành
quyền dân tộc”. Thực vậy, theo Người, quyền con người và quyền dân tộc có mối
quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện
tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người, và ngược lại, thực hiện tốt
quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của
độc lập dân tộc.
- Giáo sư người Nhật Bản Shingo Shibata
-
Ba quyền cơ bản của con người được đề cập trong Tuyên ngôn
Độc lập chính là những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Các quốc gia, dân
tộc đều đấu tranh vì những quyền cơ bản này cho người dân nước mình. Người từng
nói: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì".
Nội dung đanh thép của bản Tuyên ngôn Độc lập đã đánh đòn phủ đầu vào âm mưu và
hành động tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp. Người khẳng định: “Một dân tộc
đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập!”; “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý nghĩa
lịch sử của Tuyên ngôn Ðộc lập
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư
tưởng và ý nghĩa thực tiễn rất sâu sắc. Đây là sự phát triển đến đỉnh cao của
tư tưởng độc lập, tự do đã được thể hiện trong bản “yêu sách” gửi Hội nghị
Versailles, trong Đường kách mệnh, trong Chánh cương vắn tắt, trong Luận cương
chính trị, trong các văn kiện khác của Đảng cũng như của Mặt trận Việt Minh.
Bản Tuyên ngôn Độc lập là sự kế thừa và phát triển những bản tuyên ngôn trong
lịch sử dân tộc là Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo.
Tuyên ngôn Độc lập là kết tinh những quyền lợi cơ bản và những nguyện vọng
thiết tha nhất của nhân dân Việt Nam, là biểu hiện hùng hồn khí phách, bản lĩnh
kiên cường, ý chí bất khuất của dân tộc ta.
“Bản Tuyên ngôn Độc lập
là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của
những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong
những hải đảo xa vời, trên máy chém, trên chiến trường.
Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu
hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam... Nó
chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức. Nó mở một kỷ
nguyên mới dân chủ cộng hòa". (Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên, trang 122-123).
Đồng chí Trần Trọng Tân (Trần Trọng Hoãn, Hai Tân), nguyên Trưởng ban Tư
tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) đã phân tích về ý
nghĩa lịch sử của bản Tuyên ngôn Độc lập như sau:
Nếu bốn câu thơ trong Nam quốc sơn hà và bản Bình Ngô đại cáo được suy ra để
cho rằng nó có ý nghĩa là những bản Tuyên ngôn Ðộc lập, thì bản Tuyên ngôn Ðộc
lập ngày 2/9/1945 thật sự là một bản Tuyên ngôn Ðộc lập do Bác Hồ soạn thảo.
Ðây là bản Tuyên ngôn Ðộc lập có nội dung, bản chất rất mới. Nó đánh dấu cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi mang tính nhân dân rất sâu sắc, thật sự
là “đem sức ta tự giải phóng cho ta”. Giành độc lập là để dân làm chủ. Việc
Chính phủ lâm thời ra đời với bản Tuyên ngôn Ðộc lập ngày 2/9/1945, làm cho các
lực lượng quân đồng minh đổ bộ vào Việt Nam sau đó phải tiếp xúc với chính
quyền cách mạng, không còn cách nào khác.
Tuyên ngôn Ðộc lập đã kết thúc với một quyết tâm sắt đá: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Đoàn
xe chở Chủ tịch
Hồ Chí Minh và các đại biểu
Chính phủ lâm thời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa vào vườn hoa Ba Đình, nơi
cử hành lễ "Ngày độc lập".
(Ảnh tư liệu:
TTXVN)
Bản Tuyên ngôn Ðộc lập do Bác Hồ soạn thảo có nội dung rất
phong phú, thể hiện sự hiểu biết ở trình độ cao, với tầm nhìn bao quát về thời
đại cùng những dự báo đúng đắn sâu sắc. Tuyên ngôn cũng thể hiện một lập trường
kiên định về độc lập tự do của dân tộc, vừa có tính chiến đấu cách mạng rất
mạnh mẽ với lập luận khôn khéo, vững chắc, bằng lời văn súc tích rõ ràng.
Tuyên ngôn Ðộc lập là Tuyên ngôn về thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 8/1945,
một sự kiện nổi bật có vị trí trung tâm trong các sự kiện lịch sử của Việt Nam
trong thế kỷ 20.
Nó bắt nguồn từ thảm họa của một dân tộc bị mất nước. Nó chấm dứt ách thống trị
của thực dân Pháp và phát-xít Nhật trong 87 năm. Nó đánh đổ chế độ phong kiến
mấy nghìn năm. Nó mở ra thời đại mới, nước độc lập dân làm chủ.
Thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Tám với việc ra đời bản Tuyên ngôn Ðộc lập ngày 2/9/1945 đã tạo ra
thế và lực mới để đánh thắng giặc Pháp, giặc Mỹ trong 30 năm. Từ đó, thế đứng
của nước Việt Nam ta trên thế giới ngày càng được nâng cao, rất có lợi cho công
cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám với bản Tuyên ngôn Ðộc lập ngày 2/9/1945
đã chứng minh tính đúng đắn về con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam là giành
độc lập cho dân tộc để mưu cầu tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám kết thúc với bản Tuyên ngôn Ðộc lập ngày
2/9/1945 cùng những thắng lợi tiếp theo còn có ý nghĩa quốc tế to lớn. Nó trực
tiếp tạo ra chỗ dựa đáng tin cậy cho cuộc cách mạng của nhân dân Lào và
Campuchia anh em và góp phần làm thay đổi cục diện chính trị ở Ðông Nam Á. Nó
cổ vũ và cung cấp kinh nghiệm thành công cho nhân dân các nước thuộc địa đấu
tranh giành độc lập. Nó cắt đứt một vòi hút máu của con bạch tuộc đế quốc làm
cho thế lực đế quốc phải điều chỉnh chính sách thực dân.
Nó làm cho Việt Nam trở thành một trong những dân tộc tiên phong cách mạng
trong phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
trên thế giới.
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tinh thần bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt
Nam, không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả
về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập, tự do như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện.
Ngày xuất bản: 2/9/2022
Thực hiện: NGỌC THANH, HỒNG VÂN, BÔNG MAI
Nguồn tư liệu: Báo Nhân Dân; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập
1 (1930-1945), Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật; Võ Nguyên Giáp:
Những năm tháng không thể nào quên, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970; Biên
niên Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử
Chính phủ Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006; Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên…
Ảnh: TTXVN
Trở về nhandan.vn